Nước bạc từ làng Bình Trị Thiên xưa hay còn gọi là mùa lũ. Thị trấn của cha tôi, bà tôi, nằm ở bờ nam của sông Ji’an và lũ lụt xảy ra ba năm một lần. Mẹ tôi gặp rắc rối với Mùa bạc vì bà tôi đã mất vì bà mãi mãi khi bà còn nhỏ, và dì tôi sinh con sau đó vài ngày. Ba tôi không lạ gì mùa lũ. Ông nói: “Nước này mùa nào cũng về quê.” Làng xưa rợp bóng cây ven làng, bờ sông Tế An mọc đầy lau sậy, lũy tre. Đã tồn tại hàng trăm năm. Khi nước sông dâng cao, con vẹt trong sông giống như bức tường thành. Vào mùa lũ, con đê thủy lợi lại một lần nữa trở thành nơi trú ngụ của những số phận con người. Không ai dám nghĩ cách chữa nước, vì đó là tinh của trời cho, con người nhỏ bé phải dựa vào đó để tồn tại và sinh tồn. Khi con nước về tuy vất vả nhưng cũng đem lại nhiều lợi nhuận cho người nông dân. Những cánh đồng của làng như được khoác thêm một lớp phù sa mới, sau trận lũ, làng quê trông sạch đẹp hơn. Khi có nhiều ánh sáng mặt trời, hãy gieo hạt dưới đất và xây lại những bức tường mái tranh. Gà, lợn và bò thư giãn, như được tiếp thêm năng lượng. Sau khi đất nước bước sang mùa bạc, người dân trong nước sống ổn định hơn, có thể kể khổ cho nhau nghe và tự bảo vệ mình trở lại.
Về mùa nước nổi, chị lo sắn, nắm cơm, bao muối. Cha cố định trên gốc cây, chặt cành lá, vườn chuối cạnh nhà như đất cằn, cho thấy ông thường xuyên ngấp nghé lũ lụt. Tất của mẹ là chăn và áo sơ mi được quấn bằng rong biển. Sách học sinh được đóng gói cẩn thận. Nâng cao các vật dụng có giá trị như bát hương, bàn thờ. Lợn, gà, bò, chó cũng được đứng trên bè, nước lên đến đâu vẫn sống sót qua bão lũ. Mặn, nhạt, cá khô nhai nát xương rồi thái chỉ. Những đứa trẻ vẫn vô tư cười nói, còn người lớn thì vẫn đang vuốt ve mà sống. Ký ức tuổi thơ tôi là những mùa nước về nước vào bờ rồi xâm xấp ruộng. Một đêm sau, nước chảy đến nửa nhà, đến chiều hôm sau nước tràn lên mái nhà. Nước mênh mông, sông nối với đồng như đại dương đồng. Làng này chẳng qua là mái nhà trần, gọi là hình bóng. trước. Rừng trúc bên bờ đã được thay thế bằng một bãi bồi bê tông kiên cố, tiếng sóng vỗ bờ không còn là tiếng sột soạt mà là tiếng gầm của dòng sông. Làng vẫn là một kẻ trơ trọi, nằm giữa cánh đồng, dưới chân núi. Khu vườn cũ được thay bằng mái ngói bê tông, phơi mình dưới nắng hè, sỏi đá mùa lũ. Cuộc sống trở nên đầy đủ hơn, người dân quê muốn cuộc sống ấm no, hiện đại hơn nhưng không có gốc cây, củi. Trước đây, bếp củi nhanh chóng được quay lại để nhường chỗ cho bếp gas, lũ lụt, mất điện, chỉ cần một ít gạo và gói mì sống.
Đường làng bây giờ là đường. Những chiếc cống nhỏ chỉ được sử dụng để tưới tiêu cho đất nông nghiệp và không còn đóng vai trò là hàng rào ngăn lũ. Người dân nông thôn, người dân và chính quyền luôn quan tâm đến công tác chống lũ, xử lý nước, bảo trì nền và đường. Không ai đủ âm trầm để nghĩ đến việc sống hòa mình với thiên nhiên. Người ta chặt bỏ và nhổ bỏ vườn cây già cỗi chỉ để trồng những cây nhỏ hơn và luôn cho trái. thực sự kỳ lạ! Còn những người nông dân còn mải miết vì quyền lợi của mình mà vội quên mùa nước bạc thì kết quả hiển nhiên chỉ là cách khóc cho nước ác. Chỉ cầu mong sao tai họa không giáng xuống mình. Nước đó về rồi, không có nấu nướng, không có bè đi theo nước này. Nước dâng cao, dân làng chỉ còn cách trèo lên mái nhà. Tiếng điện thoại khủng khiếp vang lên: “Giúp tôi với …” trong cơn lũ nửa đêm. Khi nước xoáy vẫn chảy, không ai ứng cứu được.
Ở miền Trung, dãy Trường Sơn dựng đứng, đồng bằng hẹp, sông biển gặp nhau. Qua nhiều thế hệ, dân làng đã biết dựa vào thiên nhiên để tồn tại, sinh tồn và dựng làng giữ nước. Để cải thiện cuộc sống, người dân băng rừng, vượt núi, trừng trị những mảnh rừng nguyên sinh với tinh thần làm thủy điện, trồng rừng. Người ta phá rừng để trồng rừng, không có nơi nào như thế này. Rõ ràng, rừng trồng này chỉ là những mảnh bạch đàn nhỏ, keo lá lớn, dùng làm dăm gỗ, sau vài năm trồng mới được trồng lại. hội chợVì vậy, người ta gọi là “phủ xanh núi… hói”.
Vào một ngày trời quang, ngồi trên bờ biển xanh ngắt, nhìn về phía tây núi non, màu đất nhạt dần. Màu, chỉ còn lại ngọn núi, trọc lóc như kẻ say xanh, lộ ra mái đầu bạc phơ. Nước bạc đổ về như bạc trắng tóc. Đối với những người trưởng thành như tôi, giờ trở về nhà, ước muốn được nhìn lại bóng cầu vồng dưới chân thác như viển vông. Những người bạn của tôi ở các thành phố biển, chưa bao giờ biết có lũ lụt, giờ lại giục trẻ con và người lớn … học bơi. Dòng nước bạc đổ theo con suối đổ ra biển Hoa Đông khiến làng quê xơ xác, khóc lóc, chân lấm tay bùn và cảnh sau lũ khiến làng xóm điêu đứng. Những đứa trẻ hoang mang trước mái trường trống không, những cuốn sách giáo khoa lấm lem bùn đất, không còn nhìn rõ nét chữ, chúng khóc ré lên, mẹ con cô giáo và các em nghỉ học. Khi không biết đổ lỗi cho ai, người ta sẽ thử thách chính mình … Chúa ơi.
Sau đó, dân làng phải ngồi xuống, nhìn lại những gì đã xảy ra, và sau đó trồng một mảng cây trên đầu làng, trong rừng. Bị mất, bờ kè bị phá, núi bị phá. Đối xử tệ bạc với thiên nhiên của chúng ta như vậy chắc chắn mùa lũ sẽ trở lại. Những con số thống kê về lũ lụt kỷ lục đã được khôi phục, và tấm lòng nhân ái vẫn bị thổi bay bởi những kẻ bội bạc và khoe khoang. Tuy nhiên, chẳng ai quan tâm bao nhiêu mảng xanh bị tàn phá, bao nhiêu thủy điện xả ra, bao nhiêu ao hồ thay nhà, lấp bao nhiêu dòng sông. . Chúng ta thiếu một quy hoạch tổng thể cho vùng lũ miền Trung.
Trần Đình Hợp
>> Ý kiến không nhất thiết phải phù hợp với ý kiến của VnExpress.net. Xuất bản tại đây.