(Bài viết phản biện không nhất thiết phải tương ứng với quan điểm của VnExpress.net.)
Tìm nguyên nhân
Xác định các vấn đề đang xảy ra ở ĐBSCL, đó là: hạn (trạng thái nước ngọt) và muối (nước mặn trong nhà). Hai vấn đề trên ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân và nền nông nghiệp truyền thống dựa vào nước ngọt. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận một cách khách quan rằng “thuật ngữ” là vấn đề chính nổi lên trong những thập kỷ gần đây. “Muối” là trạng thái tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long, có từ hàng nghìn năm nay. Việc điều tra hiện trạng và nguyên nhân nêu trên không nhằm mục đích đánh giá hay phản biện mà chỉ nhằm tìm ra giải pháp minh bạch giúp nông dân ĐBSCL bớt khổ. Khi hạn mặn hàng năm kéo đến.
Nguyên nhân thì nhiều và đa dạng, nhưng biểu hiện bề mặt lớn nhất là sông Mekong bị chặn bởi 19 đập bê tông khổng lồ với 20 đứt gãy. Điện và nước tích trữ ở thượng nguồn làm giảm lượng nước đổ vào hạ lưu của Việt Nam. Theo nghiên cứu này, 8 đập thủy điện nằm giữa sông Mekong ở Trung Quốc giữ lại tổng cộng hơn 40 tỷ m3 nước để phát điện và tưới tiêu … Gần đây, đập Xayaburi ở Lào xuất hiện trở lại. Thủy điện cũng có thể ngăn chặn khoảng 12 tỷ mét khối nước ô nhiễm mỗi năm.
Không có lũ lụt, lượng mưa giảm, không có đủ nước ngọt để đẩy mặn, khiến nước mặn xâm nhập vào lòng đất. Đồng bằng sông Cửu Long – vựa lúa và cây ăn trái lớn nhất cả nước có nguy cơ chết dần. Điều gì sẽ xảy ra khi sông lớn bằng rồng chia đôi mươi vì lợi ích quốc gia? Tất nhiên, các thỏa thuận trên sông Mekong sẽ không chết, nhưng một ngày nào đó con người sẽ phải trả giá ích kỷ khi lấy nước từ chính đất nước của họ. Trong khi hợp tác với các nước, chúng ta đang đắp đê ngăn mặn, nạo vét khơi thông dòng chảy, đặt hồ chứa, di dời, chuyển đổi cơ cấu cây trồng … Lên Ủy hội sông Mekong để tìm giải pháp liên vùng, nhưng tình hình nhiễm mặn mỗi năm một trầm trọng hơn. Phải nhìn nhận rằng, các biện pháp đào núi, ngăn sông, khai hoang là ý đồ chủ quan, dẫn đến nhiều nguy hại cho con người và thiên nhiên. Nói cách khác, phá bỏ tất cả những con đập giết chết thủy điện trên sông Mekong của các nước thượng nguồn. Tuy nhiên, điều này là không thực tế, bởi vì các quốc gia này sẽ không dễ dàng từ bỏ nhu cầu năng lượng của mình, trừ khi họ nhận ra rằng điều này là sai, họ sẽ phải trả giá hoặc tìm cái giá phải trả. Các nguồn năng lượng thay thế khác rẻ hơn. Thế giới cũng đang tìm kiếm một giải pháp mang tên “thích ứng với biến đổi khí hậu”, đây cũng là hướng đi mà các nước chủ trương thông qua các hội nghị trên giấy.
Một hướng mới để cứu ĐBSCL
Trong một phần của bài viết này, tôi hy vọng sẽ đề xuất giải pháp kỹ thuật để bảo vệ ĐBSCL trước những vấn đề do hạn mặn – kiềm gây ra. Đây cũng có thể coi là một ý tưởng kỹ thuật nhằm giải quyết một vấn đề lớn ở Việt Nam – khát khao có nước giải khát.
Như đã nói ở trên, vấn đề bây giờ rất đơn giản. Nói một cách đơn giản hơn, giải quyết nhu cầu nước ngọt là ưu tiên hàng đầu chứ không phải là ngăn mặn như chúng ta đang làm hiện nay, điều này bẩm sinh đã có và có chí hướng “trấn sông, dời núi, tích nước”. biển. “Theo thống kê hàng năm có khoảng 300 tỷ mét khối nước ngọt từ sông Cửu Long chảy vào Việt Nam, chiếm gần 500 tỷ mét khối tổng lượng nước trung bình của toàn lưu vực. Nếu tính nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp hiện nay thì tổng lượng nước cần cả năm. Nó chỉ có khoảng 20 tỷ mét khối. Giả sử 17 triệu người sử dụng 120 lít nước sinh hoạt / người / ngày thì tổng lượng nước tiêu thụ hàng năm chưa đến 750 triệu mét khối.
Vậy tại sao lại thiếu nước ngọt? Điều này là do nguồn nước ngọt Việc phân bổ tài nguyên nước không đồng đều, quy hoạch, quản lý và sử dụng tài nguyên nước thiếu rõ ràng, thói quen sử dụng không cần thiết và không hợp lý, sử dụng phân bón hóa học và thuốc KDTV đã làm ô nhiễm nguồn nước, gây thiếu hụt nước ngọt cục bộ về thời gian và không gian.
Cách ứng phó với cơn khát nước ngọt Thiếu nước có thể được giải quyết bằng nhiều cáchĐó là việc tích trữ nước ngọt, sử dụng hợp lý và tiết kiệm nước ngọt, chế biến biến nước ngọt thành nước ngọt. Theo số liệu của Bộ NN & PTNT, do khu vực thượng nguồn sông Mê Kông năm nay không còn hạn hán 65% nên hạn hán và xâm nhập mặn mùa khô 2019-2020 có thể gay gắt hơn các năm cực đoan 2015-2016. . Tổng lượng mưa.
Theo kết quả quan trắc, hiện nay tại khu vực sông Hậu, nước mặn đã xói mòn thành phố Tần T, trên sông Thiên Hà độ mặn 2,9%, tràn đến đảo nhỏ Ngũ Hiệp (Thiên Giang) cách biển 81 km. Trên sông Vàm Cỏ, độ mặn 7,6% vào thị xã Tân An (tỉnh Long An), cách cảng 75 km. Do đó, tình trạng thiếu nước sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt đã xảy ra và sẽ tiếp tục trở nên căng thẳng trong thời gian tới, đặc biệt là ở các khu vực giáp biển. -Mục tiêu, giải pháp — Theo câu hỏi về độ mặn của con người trong nước sinh hoạt, độ mặn của con người không được vượt quá 250 mg / L (tức 0,25 ‰), và nhà máy nước sinh hoạt chỉ có thể xử lý nước có độ mặn không quá 750 mg / L (0,75 ‰) Là nguồn nước đầu vào. Đối với nước tưới nông nghiệp, độ mặn lớn hơn 2 g / L (hoặc 2 ‰) sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng. Do đó, mục tiêu của vấn đề kỹ thuật cần giải quyết là giảm lượng nước mặn từ 4 ‰ xuống dưới 0,75 để sử dụng làm nguồn nước đầu vào của nhà máy nước gia đình và sử dụng nước tưới nông nghiệp dưới 2 ‰. — Hai mục tiêu này đã tạo ra hai bộ Giải pháp: Một nhóm giải pháp kỹ thuật dùng để giải quyết nhiệm vụ cấp nước tưới tiêu nông nghiệp và nhóm giải pháp thứ hai dùng để giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt của hộ gia đình.
Gói Giải pháp Giảm thiểu Độ mặn Nông nghiệp
1. Bằng cách lắp đặt một tổ hợp thiết bị rửa mặn, chuyển đổi chức năng của đập chống mặn hiện có để ngăn muối trong nước sông, kênh và mương đi qua việc lắp đặt thiết bị rửa mặn Sự phức tạp để ngăn chặn.
2. Thiết kế, thi công và lắp đặt mạng lưới cống rửa mặn vùng nhiễm mặn cao. Trên 4 g / L .
3. Nghiên cứu thiết kế, lắp đặt hệ thống thiết bị rửa mặn tại các vị trí cầu lớn trên sông, rạch.
4. Lắp đặt thiết bị rửa mặn tại trạm bơm tưới — Theo cách này, chúng ta sẽ thiết lập một hệ thống rửa mặn ba cấp theo phân loại của hệ thống sông: sông chính, sông phụ và sông phụ để giảm độ mặn của nước Lên đến 2 g / lít cho tưới tiêu và nuôi trồng thủy sản nước ngọt .—— Công nghệ giảm độ mặn của nước mặt — Thiết bị rửa mặn hoạt động dựa trên nguyên lý lọc ion của hai trường năng lượng tích hợp, đồng thời làm cho các thiết bị bao gồm cả trường năng lượng hoạt động theo Nguyên lý vật lý, một loại năng lượng hoạt động theo nguyên tắc thanh lọc. Khi nước đi qua với tốc độ thích hợp, một loạt các thông số chất lượng nước tức thời bao gồm kim loại nặng và muối hòa tan sẽ được chuyển hóa, dẫn đến giảm độ mặn. Chất lượng nước được cải thiện, nguồn nước năng lượng sinh học cao giúp cây trồng phát triển nhanh chóng, khỏe mạnh … Thiết bị không chỉ có khả năng rửa mặn, khử phèn, khử dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất và nước.
>> Chia sẻ bài viết của bạn trong phần “Bình luận”.
Lương Ngọc Du